4.
Tạ Tri Học để lại ba trăm năm mươi lăm lượng bạc trắng, nói là để trả tiền hoành thánh của ta.
Sau ngày hôm đó, chuyện này được lan truyền khắp nơi.
Quán hoành thánh của ta trở nên đông nghịt, ai cũng muốn đến xem mặt ta và thử xem hoành thánh có hương vị thế nào.
Cùng lúc đó, không ít sĩ tử khác cũng tìm đến trả nợ tiền hoành thánh.
Có người đỗ đạt, có người thi rớt. Có người gặp được cơ hội mới, trả gấp mười, gấp trăm lần; có người vì túng thiếu nên trả nợ xong vội vã rời đi. Cũng có người từ đó bặt vô âm tín, chưa từng quay lại.
Lòng người lạnh nhạt, sự đời vô thường.
Đó là lẽ thường.
Ta lấy cuốn sổ nợ ra, nhận tiền xong đánh dấu cẩn thận.
Đếm số tiền tích góp bao năm qua, ta quyết định mua lại căn nhà bên cạnh quán, rồi tỉ mỉ trang hoàng lại.
Nhà không lớn, chỉ vừa đủ đặt tám chiếc bàn.
Nhờ danh tiếng của Tạ Tri Học, không ít văn nhân mặc khách cũng tìm đến quán hoành thánh của ta, gọi một bát hoành thánh.
Để chiều lòng họ, ta thuê thợ sơn lại tường, còn tỉ mỉ chạm trổ hoa văn trên mái hiên và bàn ghế.
Văn nhân mặc khách vốn ưa thích cỏ hoa cây cảnh, ta bèn chọn vài khóm trúc xanh chuyển vào trong quán. Cứ thế trang trí, quán trông thanh nhã hơn rất nhiều.
Ta làm một tấm biển đề “Hoành Thánh Tống Châu” treo trước cửa tiệm.
Tấm biển vừa treo lên, “Tống cô nương” trong lời đồn trở thành “Tống Châu.”
Hai tháng sau, vào buổi chiều trước khi “Hoành Thánh Tống Châu” khai trương, ta lại gặp Tạ Tri Học một lần nữa.
Khi đó, hắn đã thành thân với tiểu thư nhà các lão, được bổ nhiệm làm Viên ngoại lang của Bộ Hộ.
Xe ngựa dừng trước cửa quán, Tạ Tri Học là người xuống trước. Sau đó, hắn nhẹ nhàng nâng tay, cẩn thận đỡ phu nhân xuống xe.
Nam Thành vốn là khu dân dã, loại xe ngựa sang trọng như thế này rất hiếm thấy. Người qua lại trên phố đều tò mò ngó nghiêng.
Ta đang giám sát thợ mộc dọn bàn ghế, nhận thấy có điều gì đó không ổn, liền bước ra xem chuyện gì xảy ra.
Vừa thấy ta, phu thê Tạ Tri Học liền cúi chào.
“Ôi chao! Đây là chuyện gì vậy? Mau đứng lên, đứng lên!” Ta vội chạy tới định đỡ hai người dậy.
Nhưng cả hai nhất quyết không chịu đứng lên.
Tạ phu nhân nắm lấy tay ta, ngước mắt, nhẹ nhàng nói: “Phu quân khi mới vào kinh thành, may mắn được Tống cô nương chiếu cố rất nhiều. Nay phu quân đỗ đạt, quan lộ hanh thông, phu thê chúng ta khó lòng báo đáp đại ân của cô nương.”
Ta ngượng ngùng: “Chỉ là vài bát hoành thánh, sao đáng nhắc tới…”
“Ơn nhỏ, ắt phải báo đáp lớn.” Tạ phu nhân nói dứt khoát.
Lần này phu thê họ đến, ngoài mang theo vài món lễ vật, họ còn đưa ra một tờ khế đất. Vị trí ngay bên cạnh quán hoành thánh của ta.
Nơi đó vốn là một tửu lâu, chẳng may làm ăn thất bát, chủ quán đã dọn về Tây Bắc.
Tạ phu nhân đưa tờ khế đất cho ta, ta lập tức xua tay từ chối: “Cái này quý giá quá, ta không thể nhận được.”
“Tiền hoành thánh của Trạng nguyên lang đã thanh toán xong từ lâu.”
Sau vài lần từ chối qua lại, thấy ta thật sự không muốn nhận, Tạ phu nhân mới đành đồng ý.
Nàng đưa ra đề nghị, muốn xây một quán trọ trên mảnh đất đó.
Quán trọ sẽ hoạt động bình thường, nhưng mỗi khi đến kỳ thi xuân, sẽ miễn phí cho các sĩ tử vào ở.
Đây quả là một việc phúc lợi to lớn cho các sĩ tử, ta không ngừng tán thưởng.
5.
Sau khi quán “Hoành Thánh Tống Châu” được tu sửa xong, khách điếm bên cạnh cũng bắt đầu chỉnh sửa.
Cùng lúc ấy, danh tiếng của ta và Tạ Tri Học ngày càng lan xa, thậm chí còn vượt ra khỏi kinh thành.
Ai ai cũng đồn rằng, Trạng nguyên Tạ Tri Học là người tri ân báo đáp, còn Tống Châu cô nương bán hoành thánh lại là người không màng ơn nghĩa.
Hai người đều mang trong lòng tâm huyết vì dân vì nước, lo cho quốc kế dân sinh, làm lợi cho bá tánh.
Có câu chuyện như vậy, việc kinh doanh của “Hoành Thánh Tống Châu” càng thêm thịnh vượng.
Một mình ta quả thực không thể lo xuể, nên đã tuyển thêm vài người làm.
Trong đó, có một thiếu niên tên Phúc Quý, độ chừng mười bốn, mười lăm tuổi, tính tình hoạt bát lanh lợi. Khi đến xin việc, ta thấy cậu ta ăn mặc không tệ, bèn hỏi: “Sao lại muốn đến làm ở quán hoành thánh của ta?”
Phúc Quý lộ vẻ bất mãn: “… Cha ta hỏi ta giá một quả trứng gà là bao nhiêu. Ta đáp sai, thế là ông liền đuổi ta ra ngoài, bảo chừng nào biết rõ giá cả thức ăn hàng ngày thì mới được về nhà tiếp quản gia nghiệp.”
Nghe xong, ta bật cười: “Vậy ngươi nghĩ một quả trứng gà đáng giá bao nhiêu?”
Phúc Quý đáp: “… Mười lượng?”
Ta thở dài, rồi từ bếp lấy ra hai quả trứng trà: “Hai quả trứng trà này, quán ta bán một văn tiền một quả. Giá thu mua trứng còn rẻ hơn, thường thì bảy quả chỉ cần năm văn tiền. Mười lượng bạc mà ngươi nói đủ cho một gia đình trung lưu ở Nam thành sống một năm.”
Phúc Quý cúi đầu im lặng.
Đọc thêm nhiều truyện hay tại TruyenBiz.NetBộ y phục trên người cậu tuy giản dị, nhưng nếu nhìn kỹ, từ cách cắt may đến thêu thùa đều vô cùng tinh xảo. Nếu không phải là đi làm công, thì cũng giống như công tử nhà quyền quý lén chạy trốn ra ngoài.
“Nếu ngươi thực sự muốn ở lại làm việc, quán ta còn phát đồng phục cho người làm,” ta nói, “Bộ quần áo này của ngươi không thể mặc được nữa, ta sợ khách khứa sẽ không dám vào quán mất.”
Nghe vậy, Phúc Quý lập tức ngẩng đầu, ánh mắt rạng rỡ: “Chưởng quỹ cứ yên tâm! Ta nhất định sẽ làm việc thật tốt!”
6.
Dù Phúc Quý chưa từng làm thuê, nhưng đầu óc nhanh nhạy, tính cách lại hoạt bát, chẳng bao lâu đã hoà nhập với mọi người.
Nửa tháng sau, đứng ở cửa quán, khí chất công tử thế gia của Phúc Quý đã biến mất, chỉ còn lại dáng vẻ một tiểu nhị lăn lộn chốn thị phi nhiều năm.
Chữ cậu ta viết rất đẹp, còn làm cho quán một tấm biển mới. Thêm vài bức tranh thư pháp, quán hoành thánh nhỏ bé bỗng trở nên thanh nhã hơn nhiều.
Vài tháng sau, khách điếm bên cạnh cũng hoàn thành việc tu sửa. Tạ Tri Học đặt tên là “Kim Bảng Lâu”, hàm ý rằng các sĩ tử lưu trú ở đây đều có thể thi đỗ đạt và ghi tên trên bảng vàng.
Nhờ danh tiếng của Tạ Trạng Nguyên, ngày khai trương “Kim Bảng Lâu” có không ít sĩ tử sau khi vào kinh liền lập tức đến Nam thành để thuê trọ.
“Kim Bảng Lâu” không phục vụ ăn uống.
Khách ở đây xong, không tránh khỏi ghé qua quán “Hoành Thánh Tống Châu” để ăn một bát hoành thánh.
Trong những lúc trò chuyện, câu chuyện về việc Tạ Tri Học tri ân báo đáp lại được kể lại một lần nữa.
Phúc Quý nghe xong, lộ vẻ khinh thường.
Đến khi quán đóng cửa, cậu bắt đầu than phiền với ta: “Một tên tục nhân chỉ biết danh lợi thôi!”
“Cái mưu kế này chắc chắn là do nhạc phụ của hắn bày ra. Tạ Tri Học trong triều không có chỗ đứng, cưới tiểu thư Trần gia khác nào ở rể đâu?”
“Ông lão kia cả ngày chỉ lo tìm cách trải đường cho con rể!”
Nói xong, cậu nhìn ta với ánh mắt đầy vẻ trách móc: “Tống Châu, ngươi cũng vậy, họ lợi dụng ngươi giở trò tâm cơ, mà ngươi lại chẳng phản ứng gì!”
Tay ta ngừng lại khi đang tính sổ sách.
“Họ lợi dụng ta cái gì chứ?” Ta ngẩng đầu lên.
“Lợi dụng ngươi để cầu danh tiếng tốt đẹp!” Phúc Quý nói lớn: “Còn lợi dụng cả các sĩ tử nữa, khắp thiên hạ đều truyền bá lòng nhân nghĩa của Trần gia!”
Ta cười: “Bạc họ đưa ta là thật, khách điếm cũng sửa lại rồi, cung cấp chỗ ở miễn phí cho sĩ tử thi cử, làm gì có chuyện lợi dụng?”
“Việc tốt họ làm là thật, danh tiếng tốt họ nhận cũng là điều đương nhiên.”
“Nhưng—” Phúc Quý vẫn muốn tranh luận.
Ta giơ tay, khẽ chọc vào trán cậu ta: “Luận việc chứ không luận tâm. Việc tốt người ta đã làm chu đáo, ngươi còn muốn thế nào nữa?”
“Làm việc tốt thì phải làm một cách thuần khiết, không nên mong cầu báo đáp!” Phúc Quý nói.
“Đó chỉ có bậc thánh nhân mới làm được thôi.” Ta giơ tay ra: “Trên đời này, làm gì có nhiều thánh nhân đến vậy chứ?”
Phúc Quý lại im lặng.
Ngày hôm sau, ánh mắt cậu ta nhìn “Kim Bảng Lâu” có phần phức tạp hơn, nhưng không còn vẻ khinh thường như trước.
7.
Lại hai năm nữa trôi qua, nay ta đã hai mươi hai tuổi.
Chớp mắt một cái, Phúc Quý đã làm việc tại quán ta được hai năm rưỡi. Trong suốt hai năm rưỡi đó, dáng người cậu ta lớn nhanh không ít. Đầu năm vừa mới may bộ y phục cho người làm, cuối năm đã thấy không vừa nữa rồi.
Dường như nhà cậu ta gặp biến cố, số lần cậu đến quán phụ giúp càng ngày càng thưa thớt.
Ta dò hỏi đôi lần, nhưng thấy cậu ta cứ thoái thác, nên cũng không muốn hỏi thêm. Đến cuối năm phát tiền tháng, ta còn cho cậu nhiều gấp đôi so với năm ngoái.
Phúc Quý cầm túi tiền, cân nhắc trọng lượng, cảm thấy có điều không đúng.
Vào dịp cuối năm, nhiều người làm trong quán phải về quê ăn Tết.
Để tiễn biệt mọi người, buổi tối, ta vào bếp làm vài món, lấy ra rượu ngon nhất trong quán, vui vẻ bày biện cả một bàn tiệc.
Ba năm trôi qua, cây nhỏ trong sân giờ đây đã vững vàng và to lớn hơn trước không ít.
Gió bắc rít gào, cuốn bay lớp tuyết đọng trên cành cây.
Sau vài tuần rượu, ai nấy đều bắt đầu ngà ngà say.
Phúc Quý kéo tay áo ta, lén lút hỏi: “Chưởng quỹ, có phải ngươi phát nhầm tiền tháng rồi không?”
“Không nhầm đâu,” ta cười đáp, “Ngươi cứ yên tâm mà lo liệu chuyện nhà cho tốt.”
“Ngươi chỉ cần nhớ kỹ một điều, nếu nhà ngươi có biến cố, trở lại làm tiểu nhị ở quán hoành thánh này cũng không phải chuyện gì quá tệ.”
Trước đây, quán có một cặp phu thê làm công, khi quê nhà gặp nạn, họ khóc lóc xin ta cho về.
Lúc đó, ta cũng phát thêm cho họ một tháng tiền công, rồi dặn rằng nếu không có chốn nương thân, cứ quay về đây.
Việc buôn bán của quán hoành thánh đang ngày càng phát đạt, nuôi thêm vài người làm cũng không phải vấn đề.
Phúc Quý vừa khóc vừa cười nói: “Làm gì mà đến nỗi đó được chứ.”
Thiếu niên mười bảy tuổi, tuy nét mặt còn chút non nớt, nhưng tính cách và hành xử đã trở nên quả quyết, chững chạc hơn nhiều.
Cậu ta xin phép ta nghỉ vài tháng, bảo rằng cha bệnh nặng, cần về phụng dưỡng.
Để lại một bình luận
Bạn cần Đăng nhập để gửi bình luận.