8.
Qua Tết Nguyên Đán, lại đến kỳ Xuân Vi vào tháng Hai.
Khác với những năm trước, năm nay Thánh thượng lâm bệnh nặng, Xuân Vi do Thái tử chủ trì.
Thánh thượng rất thương yêu thê tử, mà Thái tử là con trai trưởng được sinh ra từ chính cung, địa vị tôn quý.
Chỉ tiếc rằng, tiên Hoàng hậu qua đời sớm, nhà ngoại của Thái tử giờ cũng suy yếu.
Trong khi đó, Lưu Quý phi xuất thân danh gia vọng tộc, lại sinh hạ liên tiếp vài Hoàng tử, đối với ngôi vị Hoàng đế thì luôn dòm ngó.
Trước đây trong dân gian cũng có lời đồn rằng, Thánh thượng rất sủng ái Nhị hoàng tử, muốn phế truất Thái tử.
Nhưng nay Thánh thượng sai Thái tử đứng ra chủ trì kỳ thi Xuân Vi, đủ thấy những lời đồn kia chỉ là vô căn cứ.
Những chuyện trọng đại này không ảnh hưởng nhiều đến dân thường.
Xuân Vi gần kề, thí sinh từ khắp thiên hạ đều đổ về kinh thành. Chỉ có điều, năm nay, các thí sinh có tiền lại bỏ qua các hội quán trong Đông Tây thành mà nhất định đến “Kim Bảng Lâu”.
Đáng tiếc, càng giàu có, lại càng khó vào được Kim Bảng Lâu.
“Công tử xin hãy quay về, viên trân châu trên mũ của ngài đáng giá ngàn vàng, tiểu điếm thật sự không thể tiếp đãi.”
“Công tử xin hãy quay về.”
“Công tử…”
Kỳ Xuân Vi này, Kim Bảng Lâu chỉ tiếp đãi những sĩ tử nghèo khó từ các nơi đến kinh dự thi, mà nhất định phải là những người gia cảnh nghèo khó.
Chỉ trong một ngày, chưởng quỹ của Kim Bảng Lâu đã phải từ chối không ít sĩ tử thoạt nhìn đã biết xuất thân từ gia đình giàu có, đến nỗi khô cả miệng.
Nhưng dù đã từ chối phần lớn, vẫn không đủ chỗ.
Kim Bảng Lâu nhỏ bé này không thể chứa hết các sĩ tử nghèo khắp thiên hạ, càng không thể che chở cho tất cả bách tính lao khổ.
Nhà của Lý thúc ba năm trước nhờ có phong thuỷ tốt mà sinh ra Trạng nguyên, từ lâu đã được các nhà giàu có bỏ số tiền lớn mua lại, để con em mình đến đó học tập, chuẩn bị thi cử.
Nhưng không có Lý thúc thì còn có những nhà khác.
Nhà của Triệu thúc, Tề ma ma, và Tiền đại nương xung quanh, các gian phòng trống cũng chật kín những sĩ tử đến dự thi, cùng những căn phòng tối tăm, chăn màn bốc mùi chua chát. Chỉ với mười văn tiền, họ có thể ở lại qua đêm.
Sáng hôm sau, quán “Hoành Thánh Tống Châu” vừa mở cửa, mùi hương đã lan tỏa mười dặm.
Góc phố quen thuộc, lại có vài người lén lút đứng đó, thò cổ ra nhìn ngó.
Ta thở dài, giống như ba năm trước, vẫy tay gọi họ: “Đến đây, quán ta có thể ghi nợ.”
9.
Sau khi kỳ thi Hội kết thúc, kinh thành xảy ra một trận binh biến không lớn cũng không nhỏ.
Vào đêm Hoàng thượng băng hà, có kẻ dẫn binh lính đột nhập cổng cung lúc nửa đêm. Cung cấm náo loạn, kinh thành cũng không yên ổn.
Có bọn c//ướp nhân lúc binh biến, xông vào kinh thành, c//ướp bóc các nhà giàu.
Nhưng khu Đông và khu Tây toàn là quan lại quyền quý, người nhà đông đúc, binh lính canh gác cẩn mật. Bọn c//ướp xông cả đêm mà chẳng phá nổi mấy cánh cửa.
Có vài tên lanh lợi, bèn chuyển hướng xông về phía Nam Thành.
Nam Thành là nơi người dân nghèo ở, thế lực yếu ớt. Một nhà bốn, năm miệng ăn, chỉ cần một nhát đao cũng đủ chet hết.
Tuy rằng dân thường chẳng có bao nhiêu bạc, nhưng còn hơn là ra về tay không.
Tạ Tri Học cùng vài vị quan từng nợ tiền hoành thánh của ta đã gửi thư từ sớm, báo tin cho ta đóng cửa thật chặt. Có người còn cẩn thận gửi tới vài tên lính hộ vệ.
Nhận được tin báo, ta lập tức gọi mọi người trong xóm, cùng các sĩ tử đang ở trọ, tập trung lại trong quán hoành thánh để tránh nạn.
Trần gia cũng cử thêm lính hộ vệ đến giữ cửa.
Những tên c//ướp thấy nơi này đông người, cũng chẳng dám mạo hiểm xông vào, cuối cùng trải qua một đêm bình an vô sự.
Tình hình trong cung cũng dần ngã ngũ. Kẻ làm loạn chính là các Hoàng tử, con của Lưu Quý phi.
Họ bất mãn vì Hoàng thượng truyền ngôi cho Thái tử, định dùng đao uy hiếp Hoàng thượng, ép ngài thay đổi di chiếu.
May thay, Thái tử đã chuẩn bị từ sớm, sai người đưa chiếu thư tới vị tướng lĩnh đóng quân ở cách kinh thành trăm dặm, lệnh ông ta kéo quân về cứu giá.
Thái tử hành động nhanh nhẹn, khiến Hoàng thượng yên tâm mà ra đi.
Sau đó, tân Hoàng lên ngôi.
Các Hoàng tử phản loạn bị xử tr//ảm, Lưu Quý phi t//ự v//ẫn, cả nhà Lưu thị bị tru diệt.
Chợ Cảnh Dương m//áu chảy thành sông, người trong kinh thành lo sợ mấy ngày liền.
Thế nhưng, không bao lâu sau, niềm vui của kỳ thi Hội công bố bảng vàng đã xua tan hết mọi lo âu.
Không biết có phải trùng hợp hay không, năm nay Trạng nguyên lại là một sĩ tử từng nợ tiền hoành thánh ở quán ta.
Trong kỳ thi Điện, khi tân đế nghe hắn nói về việc nhà nghèo, chỉ có thể ở Nam Thành và từng nợ tiền hoành thánh ở quán “Hoành Thánh Tống Châu”, ngài đã bật cười.
Hoàng đế chỉ vào Tạ Tri Học, người nay đã là Hộ bộ Thị lang, mà cười nói: “Liên tiếp hai khóa đều xuất Trạng nguyên, quán này quả là chốn phong thủy bảo địa.”
10.
Nhờ lời khen “phong thủy bảo địa” của tân đế, quán “Hoành Thánh Tống Châu” của ta lại càng đông khách.
Đọc thêm nhiều truyện hay tại TruyenBiz.NetKhông biết ai đã lan truyền tin ta còn chưa thành thân, khiến không ít người tới cầu hôn.
Người đến gặp ta quá đông, ta đành phải trốn vào bếp làm việc, ít khi ra ngoài quán.
Cho đến một hôm, tiểu nhị vào bếp tìm ta, bảo rằng có người quen cũ đến thăm.
Ta lau tay bước ra, thì thấy một người đàn ông to lớn, vạm vỡ ngồi trong quán.
Hắn có đôi lông mày rậm và đôi mắt lớn, chỉ cần đảo mắt một cái cũng đủ khiến trẻ con sợ khóc thét.
Có hắn ngồi đó, khách trong quán đã gần như chạy hết.
Trên cánh tay lộ ra một vết sẹo dài, giống như một con rồng dữ tợn, chạy thẳng vào ống tay áo.
“… Tưởng đại ca?” Ta kinh ngạc thốt lên.
Người nam nhân kia quay lại, thấy ta thì nét mặt hung dữ bỗng chốc biến mất, thay vào đó là một nụ cười rạng rỡ.
“Muội tử Tống gia!”
Nam nhân này tên Tưởng Hạc Minh, từng là tiêu sư (hộ tống hàng hóa).
Năm năm trước, hắn dẫn huynh đệ đến kinh thành giao hàng. Ai ngờ hàng giao xong xuôi, chủ nhà lại dính vào chuyện “án tru di tam tộc”, bị tịch thu tài sản và lưu đày.
Không những không lấy được tiền công, mà cả chiếc rương hàng cũng bị quan phủ tịch thu làm chứng cứ. Làm tiêu sư dễ kiếm tiền, nhưng bọn họ vừa vào kinh đã tiêu sạch tiền mang theo.
Sau khi trả tiền trọ, mấy gã nam nhân to lớn thô kệch ấy gần như không còn đồng nào để ăn. Thấy họ khổ sở, ta thương tình cho họ nợ vài ngày tiền hoành thánh.
Chẳng bao lâu sau, họ tìm được việc làm mới, rồi trả hết tiền hoành thánh. Sau đó, bẵng đi mấy năm không gặp.
Tưởng Hạc Minh sai người khiêng vào quán mấy cái rương lớn, chất đầy trong quán. Khi mở rương ra, bên trong toàn là bạc trắng.
Ta choáng váng.
“Đây là làm gì vậy?!”
Tưởng Hạc Minh chẳng mảy may bận tâm.
“Muội muội à, đại ca là người thô thiển, không có cái lối văn vẻ như đám văn nhân đâu.”
“Đại ca cứu giá lập công, được phong làm Ninh Chiêu hầu, số bạc này là Hoàng thượng mới ban thưởng.”
“Ngày trước muội cho đại ca nợ bát hoành thánh, đã thấy muội là người tốt bụng. Dù thế gian này có bất công đến đâu, người tốt cũng không thể bị bỏ quên.”
“Số bạc này muội cứ nhận, sau này có khó khăn gì cứ tìm đại ca.”
“Ngày muội xuất giá, nhà đại ca sẽ là nhà mẹ đẻ của muội!”
“Ta muốn xem, ai còn dám làm khó ân nhân của Tưởng Hạc Minh này!”
“—Lời này của Ninh Chiêu hầu, trẫm rất thích nghe.”
Lời vừa dứt, ta thấy bóng dáng Phúc Quý hiện ra ở cửa. Cậu ta mặc long bào tím viền vàng, tay cầm quạt gấp, khẽ mỉm cười tựa vào cửa.
Ta chưa kịp lên tiếng, đã nghe Tưởng Hạc Minh thốt lên đầy kinh hãi: “—Bệ hạ?!”
11.
Trẫm? Bệ hạ? Phúc Quý chính là tân hoàng?
Đầu óc ta bỗng chốc trở nên hỗn loạn. Nhưng sâu trong tâm trí, có một tiếng nói vang lên: “Quả nhiên là vậy.”
Suy nghĩ này đã từng thoáng qua trong đầu ta, nhưng vì quá mức kinh ngạc, ta đã chôn vùi nó sâu trong trí nhớ, không dám nghĩ đến.
Khi Hoàng đế vừa đến, Tưởng Hạc Minh bỗng như chuột gặp mèo, chỉ dám nói vài câu qua loa rồi vội vã cáo lui.
Chỉ còn lại ta và Hoàng đế ngồi trong quán.
Xung quanh quán bị hộ vệ canh giữ, không ai dám lại gần.
Cả hai ngồi đối diện, chẳng ai nói lời nào.
Mãi một lúc lâu sau, ta mới sực nhớ mình phải hành lễ, vội vàng quỳ xuống: “Dân nữ bái kiến bệ hạ.”
“Này, được rồi, được rồi!” Hoàng đế vội vã nâng ta dậy: “Giữa chúng ta, không cần nhiều lễ tiết như vậy.”
Ngài ấy đỡ ta ngồi xuống, cũng không nhiều lời khách sáo, mà đi thẳng vào chuyện: “Hôm nay trẫm đến tìm ngươi, là có một việc rất quan trọng muốn hỏi.”
“Tống Châu, ngươi có biết Tống Thái phó của tiền triều không?”
“Tống Thái phó…”
“Tống Thái phó là thầy của tiên đế, khắp thiên hạ, không ai không biết.” Giọng ta khẽ run.
“Đúng vậy,” Hoàng đế thở dài, “nhưng dù là thầy của Hoàng đế thì sao? Mười lăm năm trước, nhà họ Lưu thế lực lớn mạnh, ngụy tạo chứng cứ vu oan cho Tống Thái phó thông đồng với địch quốc, khiến Tống gia tan cửa nát nhà.”
“Nam đinh của Tống gia đều bị xử tr//ảm, còn nữ nhân thì dù già trẻ, tất cả đều bị ép làm kỹ nữ.”
“Trẫm đã biết từ lâu, mẹ ngươi từng là thị nữ thân cận của phu nhân Tống gia. Khi đến tuổi, bà ấy được trả tự do, lại được ban cho vàng bạc, ruộng đất, rồi gả đi.”
“Phu nhân Tống gia từng cứu mẹ ngươi, mẹ ngươi ghi nhớ ân tình, đổi sang họ Tống. Cha ngươi mất sớm, mẹ ngươi lại đoạn tuyệt với nhà chồng, nên đã đặt tên ngươi là Tống Châu.”
“… Đúng vậy,” ta cúi đầu, “Bệ hạ tra rõ mọi chuyện.”
“Vậy còn ngươi?” Hoàng đế lại hỏi: “Ngươi là Tống Châu? Hay là Tống Lan Thanh?”
Để lại một bình luận
Bạn cần Đăng nhập để gửi bình luận.